Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016

BÀI TẬP TỰ HỌC, TỰ NGHIÊN CỨU SINH VIÊN D47 - QUẢN LÝ THAM MƯU (Bài QUỐC PHÒNG, AN NINH))

NỘI DUNG TỰ HỌC, TỰ NGHIÊN CỨU BÀI QUỐC PHÒNG, AN NINH

1. Nghiên cứu và bút ký trước những nội dung quan trọng của bài Đường lối Quốc phòng, an ninh gồm:

- Mục tiêu quốc phòng, an ninh
- Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
- Tưởng chỉ đạo của Đảng về quốc phòng, an ninh
- Liên hệ vai trò của lực lượng CAND

2. Chuẩn bị nội dung các câu hỏi thảo luận sau:

Câu 1: Trình bày nhiệm vụ của Đảng về Quốc phòng, an ninh trong văn kiện Đại hội XII
Câu 2: Có quan điểm cho rằng cần phi chính trị hóa lực lượng quân đội nhân dân, đồng chí hãy đánh giá, nhận xét quan điểm trên?
Câu 3: Liên hệ vai trò lực lượng CAND trong thực hiện đường lối quốc phòng, an ninh của Đảng. mỗi nhóm chuẩn bị 01 slide thuyết trình phần này theo tài liệu đã cung cấp và gợi ý của giảng viên.

Các em hoàn thành các nội dung trước ngày 9/5/2016. Chúc các em học tập và hoàn thành tốt nhiệm vụ!

BÀI TẬP TỰ HỌC, TỰ NGHIÊN CỨU SINH VIÊN D47 - QUẢN LÝ THAM MƯU (Bài kinh tế thị trường)

  NỘI DUNG PHẦN TỰ HỌC, TỰ NGHIÊN CỨU:

1. Nghiên cứu và bút ký trước những nội dung quan trọng của bài kinh tế thị trường gồm:

- Cơ chế kế hoạch hóa tập trung
- Quá trình hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XII
- Xây dựng nội dung mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN theo tài liệu giảng viên đã cung cấp
- Chuẩn bị slides thuyết trình phần liên hệ vai trò lực lượng CAND trong thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?

2. Chuẩn bị nội dung các câu hỏi thảo luận sau:

Câu hỏi 1: So sánh kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng XHCN
Câu hỏi 2: Trình bày nội dung vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Câu hỏi 3: Trình bày nội dung tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 
Câu hỏi 4: Liên hệ vai trò của lực lượng CAND trong thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (chuẩn bị nội dung và slide/ mỗi nhóm 1 slide)

Các em hoàn thành các nội dung trước ngày 9/5/2016. Chúc các em học tập và hoàn thành tốt nhiệm vụ!

Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016

Truyền thống của lực lượng CAND trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân!



Trong 70 năm xây dựng và trưởng thành, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, kể cả khi khó khăn, thử thách, lực lượng Công an luôn thể hiện sự tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; kiên định, vững vàng, làm tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước, phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành và địa phương, nhất là phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Xứng đáng với lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công an nhân dân, vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

VỀ HAI CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC VÀ TÂY NAM



- Ở biên giới Tây Nam: Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính qui Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích. Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn. Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15-20 km. Đến năm 1989 quân Việt Nam rút về nước.
- Chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc, 1979 hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung HoaCộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc xua quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước. Chiến tranh biên giới Việt - Trung xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia và ý đồ "dạy cho Việt Nam một bài học" của Đặng Tiểu Bình, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa.
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông DươngChiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Bắc Kinh muốn Hà Nội chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Hà Nội muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất Tổ quốc của họ. Và hơn thế nữa, họ muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian. Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Hà Nội bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Bắc Kinh phản đối.
Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự phản bội. Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của Trung Quốc rằng chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. Ông rời Trung Quốc mà không tổ chức tiệc đáp lễ theo truyền thống, cũng không ký thỏa thuận chung. Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ như đã hứa năm 1973. Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo ngược". Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện trợ là phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.

MỘT SỐ BIẾN ĐỘNG VỀ QUỐC PHÒNG VIỆT NAM



Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động mau lẹ ảnh hưởng đến tình hình quốc phòng, an ninh của nước ta. Trong đó, nổi lên là một số vấn đề sau:
- Một là, tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa nước ta với các nước trong khu vực, đặc biệt là với Trung Quốc. Mới đây, Trung Quốc đã đưa ra đường yêu sách 9 đoạn hay còn gọi là “Đường lưỡi bò” khẳng định chủ quyền ở Biển Đông. Theo đó, diện tích lãnh hải mà Trung Quốc tuyên bố chiếm đến 80% diện tích Biển Đông. Trung Quốc đơn phương đưa ra những chứng cứ, lập luận phi lý để chứng minh chủ quyền trên. Trước tình hình đó, Việt Nam đã kêu gọi Trung Quốc và các bên liên quan bao gồm các nước có chủ quyền tranh chấp ở Biển Đông ngồi vào vòng đàm phán để đi tới việc khẳng định chủ quyền Biển Đông theo Công ước quốc tế. Không những tuyên bố chủ quyền một cách phi lý trên các trường quốc tế, vừa qua, các tàu bảo vệ bờ biển của Trung Quốc đã có hành vi cắt cáp thăm dò dầu khí của Việt Nam trong hải phận nước ta. Động thái này đã tạo nên một mối quan ngại rất lớn về những hành động mà Trung Quốc có thể đơn phương tiến hành ở Biển Đông. Cùng với Trung Quốc, nhiều nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cũng có nhiều hành động gây hấn ở vùng biển tranh chấp, làm tình hình khu vực ngày càng căng thẳng. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc khẳng định chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông.
- Hai là, tình hình biên giới trên đất liền của nước ta cũng diễn biến hết sức phức tạp trong thời gian qua. Việt Nam đã hoàn thành cắm mốc biên giới với Trung Quốc với gần 2000 cột mốc trong đó có trên 1500 cột mốc chính và trên 400 cột mốc phụ. Nước ta cũng đang đẩy nhanh tiến trình phân giới cắm mốc với Lào và Campuchia. Tuy các cột mốc biên giới đã được cắm nhưng vẫn còn xuất hiện nhiều tranh chấp về đất đai, khoáng sản, di tích, danh lam thắng cảnh giữa nước ta với các nước láng giềng. Điều này làm cho tình hình khu vực biên giới diễn biến rất phức tạp, khó dự báo, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa, chủ quyền và sự ổn định của đất nước.
- Ba là, nhiều nguy cơ an ninh phi truyền thống đang đe dọa đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đó là tình trạng khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên, tình trạng một số địa phương cho các chủ đầu tư nước ngoài thuê lại đất lâu dài, hiện tượng thương lái Trung Quốc thu mua đỉa một cách tràn lan làm mất cân bằng sinh thái đồng ruộng, tình trạng thu mua lá vải khô ở một số vùng vải ở khu vực phía Bắc của thương lái Trung Quốc gây ảnh hưởng đến chất lượng đất trồng vải, tiềm ẩn nguy cơ khó lường đối với vải Việt Nam,… Điều này đã đặt ra rất nhiều vấn đề phải quan tâm, giải quyết, tính toán lâu dài với các nhà hoạch định chính sách để không chỉ đảm bảo lợi ích kinh tế mà quan trọng hơn là giữ vững được chủ quyền đất nước. Và còn rất nhiều các nguy cơ khác đang ngày ngày tác động đến sự ổn định quốc phòng của nước ta như ảnh hưởng của các nước đế quốc bên ngoài, ảnh hưởng của tình hình bất ổn trên thế giới, nguy cơ chiến tranh cục bộ ở một số khu vực,…
          Tóm lại, trong những năm qua ở nước ta vẫn còn tồn tại những nguy cơ mà Đảng chỉ ra như: tụt hậu về kinh tế; nguy cơ chệnh hướng XHCN; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch không những vẫn tồn tại mà còn có diễn biến phức tạp đan xen, tác động lẫn nhau không thể coi nhẹ bất cứ nguy cơ nào. Các mối đe dọa về ANQG như “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sự suy thoái về quan điểm, tư tưởng, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên, sự biến chất từ nội bộ Đảng và hệ thống chính trị, những sơ hở thiếu xót trong lãnh đạo, quản lý điều hành công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, xung đột vũ trang,... Vì vậy, Đảng cần có những biện pháp nhằm nâng cao quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và làm cho nhân dân nhận thức được tầm quan trọng của quốc phòng, an ninh, tham gia bảo vệ Tổ quốc.

Một số khái niệm về Quốc phòng, An ninh



- Khái niệm quốc phòng, nền quốc phòng toàn dân
          + Khoản 1 điều 3 Luật Quốc phòng năm 2005 quy định: “Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt”.
+ Khoản 2 điều này cũng quy định: “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước được xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”.
          + Quốc phòng toàn dân (QPTD) là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lưc, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Khái niệm An ninh quốc gia, bảo vệ an ninh quốc gia, nền an ninh nhân dân trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
+ Khoản 1 điều 3 Luật ANQG gia năm 2004 nêu ra khái niệm về ANQG như sau: “An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. ANQG bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, quốc phòng, đối ngoại,…trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt.
+ Khoản 2 điều 3 Luật ANQG quy định: “Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia”.
+ Về trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ ANQG, điều 8 Luật ANQG quy định: “Bảo vệ an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật”. Luật ANQG cũng chỉ rõ hoạt động xâm hại ANQG là những hành vi xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, an ninh quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
+ Mục tiêu quan trọng về ANQG là những đối tượng, địa điểm, công trình, cơ sở về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học - kĩ thuật, văn hoá, xã hội thuộc danh mục cần được bảo vệ theo quy định của pháp luật. Bảo vệ ANQG là sự nghiệp của toàn dân.
- Khoản 9 điều 3 Luật ANQG quy định: “Nền an ninh nhân dân là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt”.
- An ninh nhân dân là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lượng ANND làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm ANQG và TTATXH, cùng với toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Viêt Nam XHCN.
An ninh nhân dân là bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ ANQG. An ninh nhân dân có nhiêm vụ: đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động xâm phạm ANQG của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN. Nền an ninh là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ ANQG, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ ANQG làm nòng cốt.
- Mối quan hệ giữa quốc phòng và an ninh
 An ninh và quốc phòng là hai thành tố biểu trưng cho sức mạnh của Tổ quốc XHCN, nhằm mục tiêu đánh thắng thù trong, giặc ngoài, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hoà bình để xây dựng và phát triển đất nước.
+ Kết hợp an ninh với quốc phòng là yêu cầu khách quan và trở thành quy luật tất yếu đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; nước ta tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng; các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực hòng xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN của nhân dân ta.
Vì vậy, kết hợp an ninh với quốc phòng nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, quyết định tới thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc về mặt chủ quyền, lãnh thổ và bảo vệ chế độ XHCN luôn gắn chặt với nhau, tác động, bổ sung cho nhau trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và được thể hiện một cách đầy đủ, sâu sắc ở mối quan hệ giữa an ninh với quốc phòng.
+ Đây là hai thành tố trọng yếu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, biểu trưng sức mạnh của Tổ quốc Việt Nam XHCN, tuy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng an ninh và quốc phòng vẫn là hai thực thể khác nhau, luôn tồn tại, phát triển độc lập tương đối với nhau. Trước đây, trong chiến tranh giải phóng, các thế lực xâm lược, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bao giờ cũng là nhà nước ngoại bang, nên đối tượng đấu tranh chủ yếu của nhân dân ta lúc đó là đội quân xâm lược nước ngoài. Tất nhiên, để thực hiện hành động gây hấn hoặc xâm lược, chúng cũng phải thu thập thông tin về ta từ nhiều nguồn; trong đó, có các lực lượng tay sai làm nội ứng ở bên trong, nhưng lực lượng này thường chỉ đóng vai trò hỗ trợ thứ yếu, còn chủ yếu vẫn là đội quân xâm lược. Ngày nay, trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước còn nhiều diễn biến phức tạp, mặc dù các thế lực bên ngoài vẫn giữ vai trò quan trọng trong các cuộc đảo lộn chính trị ở các nước, nhưng ở những thời điểm, địa bàn và thời cơ nhất định, các lực lượng chống đối bên trong cũng rất nguy hiểm và là lực lượng trực tiếp tạo ra các cuộc bạo loạn chính trị, lật đổ chế độ. Vì thế, sự kết hợp giữa an ninh và quốc phòng càng có ý nghĩa rất quan trọng.
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã xác định: Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới. Kết hợp quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế-xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ. Đây là những chủ trương rất đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Tuy nhiên, do đối tượng đấu tranh khác nhau, việc sử dụng chiến thuật, nghệ thuật của quốc phòng và an ninh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng  có nhiều điểm khác nhau.
- Khái niệm Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
+ Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc1[ 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.117] 
Khái niệm bảo vệ Tổ quốc nêu trên được Đảng ta khẳng định là sự tổng kết mới rất sâu sắc, nội dung của khái niệm giúp chúng ta làm cơ sở cho việc xác định đúng phương hướng, nhiệm vụ cụ thể, tổ chức lực lượng và những  giải pháp tăng cường tiềm lực và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
+ Bảo vệ Tổ quốc trước hết là bảo vệ vững chắc quyền dân tộc cơ bản mà nhân dân ta đã giành được; bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Đảng, Nhà nước, nhân dân và sự vững mạnh của chế độ XHCN.
+ Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xâm hại.
+ Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH, bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển theo định hướng XHCN.
+ Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận QPTD và ANND ; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh; phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
+ Tăng cường quốc phòng; giữ vững ANQG và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong  đó Quân đội nhân dân (QĐND) và Công an nhân dân (CAND) là lực lượng nòng cốt, trọng yếu, đi đầu.